DIỄN ĐÀN hochanh.net.vn
Cảm ơn bạn đã quan tâm đến học hành và tham gia diễn đàn hochanh.net.vn

Join the forum, it's quick and easy

DIỄN ĐÀN hochanh.net.vn
Cảm ơn bạn đã quan tâm đến học hành và tham gia diễn đàn hochanh.net.vn
DIỄN ĐÀN hochanh.net.vn
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 


Rechercher Advanced Search

Latest topics
Gallery


Động vật Đa bào hoàn thiện (Eumetazoa) Empty
Đăng nhập với tên thanhvien VIP

28/8/2010, 21:37 by ABC

BẠN CÓ THỂ ĐĂNG KÝ RỒI ĐĂNG NHẬP
HOẶC ĐĂNG NHẬP
VỚI TÊN thanhvienvip
hoặc thanhvien 1
hoặc thanhvien 2
hoặc thanhvien 3

và mật khẩu là 1234567890

để không có dòng quảng cáo trên.

Comments: 0

HỌC ĐI ĐÔI VỚI HÀNH ?

28/4/2010, 22:40 by Admin

Học đi đôi với hành


“ trăm hay không bằng tay quen”. người lao động xưa đã từng quan niệm rằng lí thuyết hay không bằng thức hành giỏi. điều đó cho thấy người xưa đã đề cao vai trò của thức hành . trong khi đó những kẻ học thức chỉ biết chữ nghĩa thánh hiền, theo lối học từ chương sáo mòn cũ kĩ. …

[ Full reading ]

Comments: 2

Poll
Keywords

phẩm  tích  Phân  


Động vật Đa bào hoàn thiện (Eumetazoa)

Go down

Động vật Đa bào hoàn thiện (Eumetazoa) Empty Động vật Đa bào hoàn thiện (Eumetazoa)

Bài gửi by BuiXuanTung 25/6/2010, 21:35

Động vật Đa bào hoàn thiện (Eumetazoa)
ĐỘNG VẬT CÓ ĐỐI XỨNG TOẢ TRÒN (RADIATA)
/center]
I. Ngành Ruột khoang (Coelenterata hay Cnidaria)
1. Đặc điểm chung
1. Hoàn toàn sống ở nước (biển hay nước ngọt).
2. đối xứng phóng xạ hay đối xứng toả tròn 2 ngăn, cơ thể kéo dài, không có
đầu.
3. Có 2 dạng hình thái là polyp và medusa.
4. Có bộ xương ngoài và bộ xương trong bằng chitin, calxi hay phức hợp
protein.
5. Cấu tạo cơ thể tương đối hoàn thiện hơn động vật thân lỗ, nhưng vẫn ở mức
độ tổ chức thấp hơn các động vật đa bào khác. Cơ thể ruột khoang có cấu tạo 2 lớp
tế bào là biểu bì ngoài và biểu bì tiêu hoá, có tầng trung giao nhiều tế bào và mô liên
kết.
6. Có xoang vị (thường phân nhánh với các vách ngăn), chỉ có một lỗ thông ra
ngoài (làm nhiệm vụ vừa là miệng vừa là hậu môn), quanh lỗ có các tua bắt mồi.
7. Có tế bào gai trên thành cơ thể hay trên biểu bì tiêu hoá, có nhiều ở vùng tua
bắt mồi.
8. Thần kinh dạng lưới, tế bào thần kinh chưa có synap điển hình. Có một số
cơ quan cảm giác đơn giản.
9. Đã có tế bào biểu mô cơ tham gia vào vận động của cơ thể: Tầng co rút dọc
và ngang gây nên khả năng duỗi hay co cơ thể và khả năng bám trên giá thể.
10. Sinh sản vô tính bằng sinh chồi (dạng polyp), sinh sản hữu tính bằng giao
tử (cả dang polyp và medusa), phân cắt hoàn toàn đều, hình thành ấu trùng planula.
11. Không có cơ quan bài tiết và hô hấp riêng biệt, chưa hình thành xoang cơ
thể.
2. Hệ thống học Ruột khoang
Phần lớn ruột khoang sống ở biển, thích nghi với lối sống bám hay trôi nổi.
Hiện nay được biết khoảng 10.000 loài, sắp xếp trong 3 lớp là Thủy tức, Sứa và San
hô.
2.1 Lớp Thủy tức (Hydrozoa)
2.1.1 Thủy tức nước ngọt
a. Đặc điểm cấu tạo và sinh lý: Gồm các động vật đa bào có kích thước nhỏ,
sai khác về mặt hình thái là có dạng thủy tức (polyp) và dạng thủy mẫu (medusa),
tương ứng với 2 lối sống bám và sống trôi nổi cùng với 2 kiểu sinh sản khác nhau
(hình 3.1).
Hình dạng: Cơ thể có hình ống dài, sống bám vào giá thể, phần bám được gọi
là đế, phía đối diện là miệng có nhiều tua (hay tay), có chức năng bắt mồi, di chuyển (theo kiểu sâu đo và lộn đầu) và cảm giác. Tua có khả năng vươn
rất dài, gấp nhiều lần so với chiều dài của cơ thể, đồng thời cũng có khả năng co
ngắn lại. Giữa các tua có có xoang rỗng thông với xoang vị của phần thân (hình 3.2).
Thành cơ thể có 2 lớp tế bào và một tầng trung giao ở giữa. Thành cơ thể có 4 loại
tế bào, phân bố như sau.
+ Lớp tế bào ngoài gồm 4 loại tế bào:
1) Tế bào biểu mô cơ hình thành nên tầng cơ co rút ở đáy tạo nên khả năng co
rút theo chiều dọc, còn ở ngọn (cuối thân) tạo tầng bảo vệ (hình 3.3).
2) Tế bào gai có chứa chất độc, có nắp đậy, có cuống (hình 3.2C).
3) Tế bào thần kinh cảm giác tạo thành mạng lưới.
4) Tế bào trung gian chưa phân hoá. Tế bào trung gian này có thể sinh ra nên tế
bào gai để thay thế hay sinh ra tế bào sinh dục.
++ Lớp tế bào thành trong lát xoang vị chỉ có 2 loại tế bào là tế bào biểu mô cơ
tiêu hoá, có phần gốc tạo nên tầng co rút đối kháng (co rút theo chiều ngang), phần
ngọn của các tế bào hướng vào trong xoang, có 2 roi, có khả năng hình thành chân
giả để bắt lấy thức ăn; tế bào tuyến tiết men tiêu hoá vào xoang vị tiêu hoá ngoại
bào. Thức ăn là các giáp xác nhỏ.
+ Tầng trung giao là một lớp nguyên sinh chất mỏng, kém phát triển.
Về độ dày thì lớp tế bào ngoài thường gấp đôi lớp trong và rất dày so với tầng
trung giao. Như vậy phần cơ của thủy tức chỉ là một phần tế bào, có chức phận kép
(hoặc là bảo vệ, hoặc là dinh dưỡng) chứ không phải là một tế bào độc lập.
b. Sinh sản và phát triển: Khi điều kiện thuận lợi, thủy tức sinh sản vô tính bằng
đâm
chồi, nhưng khi điều kiện sống khó khăn thì chúng chuyển sang sinh sản hữu tính.
Hợp tử được hình thành có vỏ bọc bảo vệ, sống tiềm sinh cho đến khi có điều kiện
thuận lợi trở lại thì tiếp tục phát triển.
Sinh sản vô tính: Các chồi mọc lên từ vùng sinh chồi ở giữa cơ thể. Lúc đầu là
một mấu lồi, sau đó lớn dần lên rồi xuất hiện lỗ miệng và tua miệng của con non,
thủy tức non sau đó tách khỏi cơ thể mẹ thành một cơ thể độc lập và hình thành cơ
thể trưởng thành. Tuy vậy đôi khi chúng không tách khỏi cơ thể mẹ mà hình thành
nên tập đoàn gồm nhiều cơ thể (chồi con, cháu, chắt...).
Sinh sản hữu tính: Tùy theo điều kiện môi trường mà có thể đơn tính hay lưỡng
tính. Tuyến sinh dục được hình thành do các tế bào trung gian của lớp tế bào thành
ngoài tập trung lại. Tuyến tinh thường nằm lệch về phía tua miệng, còn tuyến trứng
thường nằm lệch về phía đế.
2.1.2 Thủy tức tập đoàn và sứa ống
a. Cấu tạo của dạng thủy tức tập đoàn: Dạng tập đoàn khá phổ biến trong lớp
Thủy tức. Tập đoàn được bọc trong một màng mỏng. Thành của tập đoàn cũng có
các lớp tế bào thành ngoài bao bọc, lớp tế bào thành trong và tầng trung giao như
cấu trúc cơ thể của thủy tức đơn độc và đặc biệt là xoang vị của các cá thể trong tập
đoàn thông với nhau. Giữa các cá thể trong tập đoàn có sự phân hoá về hình thái và
chức năng. Cá thể dinh dưỡng có cấu tạo điển hình của thủy tức (dạng polyp) giữ
chức năng bắt mồi, tiêu hoá, còn cá thể đã biến đổi thành trụ sứa (dạng medusa) thì
đảm nhận chức năng sinh sản hứu tính.
Quá trình hình thành dạng medusa như sau: Các cá thể thủy tức trong tập đoàn
giữ chức năng sinh sản sẽ được hình thành từ một chồi sinh sản. Chồi sinh sản là
một cuống dài, bên trong rỗng (được gọi là trụ thủy mẫu - blastostyl). Từ trụ thủy
mẫu hình thành nên thủy mẫu. Thủy mẫu có cơ thể hình dù, lỗ miệng nằm trên
cuống miệng. Xung quanh bờ dù có các tua dù với số lượng là 4 hay bội số của 4,
viền quanh bờ dù về phía dưới là rèm dù. Khi thủy mẫu bơi thì rèm dù sẽ hoạt động
như một cái van đóng mở và tống nước ra vào. Xoang vị của thủy mẫu phức tạp hơn
nhiều so với thủy tức. Ngoài ra còn có các xoang vị trong tua bắt mồi thông với
xoang trung tâm của cơ thể. Tầng trung giao đầy nước, mạng thần kinh tập trung
thành vòng bao quanh hay hạch và có cơ quan cảm giác phức tạp hơn nhiều so với
thủy tức như có cơ quan thị giác (điểm mắt) và cơ quan thăng bằng (bình nang, bên
trong có bình thạch)... là những đặc điểm thích nghi với đời sống trôi nổi của thủy
mẫu.
Cấu tạo cơ quan thị giác: Đơn giản nhất là điểm mắt, chỉ có các tế bào sắc tố
cảm nhận được sáng và tối. Mức độ cao hơn là hố mắt hay túi mắt gồm nhiều tế bào cảm quang tập trung lại trong một túi hay hố nên có thể phân biệt được cường độ
chiếu sáng.
Cơ quan thăng bằng dựa trên một nguyên lý hoạt động là lấy lại cảm giác ban
đầu khi có sức ép của một hạt nặng lên các tế bào cảm giác bị thay đổi do cơ thể
không ở trạng thái thằng bằng. Cấu tạo gồm có bình nang là một túi rỗng, thành túi
lát tế bào cảm giác ở mặt trong, bên trong chứa bình thạch. Bình nang hoạt động có
thể đảm nhận các chức năng cảm giác thăng bằng, vừa kích thích chức năng hoạt
động của bờ dù.
b. Cấu tạo cơ thể sứa ống: Nhóm động vật này sống trôi nổi, có hình dạng, kích
thước rất thay đổi và đa dạng nhưng chúng có chung một sơ đồ cấu tạo. Tất cả các
cơ thể đều xếp xung quanh một dây trụ, trên cùng ở đỉnh trụ là phao nổi do thuỷ mẫu
biến đổi thành. Quanh miệng phao nổi có tơ cơ vòng có thể đóng hay mở xoang vị.
Đáy xoang vị có tế bào tuyến tiết khí giống với thành phần không khí.
Nhờ các cấu tạo này và hoạt động của phao nổi mà tập đoàn sứa ống có thể nổi
hay chìm tùy theo việc điều chỉnh lượng khí tiết ra. Dưới các phao nổi là các chuông
bơi cũng là một dạng biến đổi của thuỷ mẫu. Chuông bơi giúp cho sứa ống di chuyển
được. Dọc theo các dây trụ là các cơ thể dinh dưỡng và sinh sản xếp thành nhóm.
Mỗi cơ thể dinh dưỡng có cấu tạo gồm tấm che, tua săn mồi (có thể phân nhánh hay
không), cơ thể tiêu hoá thức ăn do tua săn mồi chuyển đến, cơ thể bài tiết. Tất cả
các cơ thể dinh dưỡng đều là sự biến đổi của dạng cơ thể thuỷ tức, còn các cơ thể
sinh sản thì là sự biến đổi của dạng thuỷ mẫu.
c. Sinh sản và phát triển của thủy tức tập đoàn và sứa ống: Các cá thể dạng
thủy tức (polyp) của thủy tức tập đoàn chỉ có thể sinh sản vô tính bằng cách mọc
chồi. Còn các cơ thể sinh sản hữu tính có khác nhau hình thành các mầm sứa, có
nghĩa là sự sinh sản chỉ xảy ra ở dạng thủy mẫu. Thủy mẫu phân tính, tuyến sinh
dục nằm trong lòng dù, ngay dưới các ống vị, hay trên cuống miệng ở giữa lớp tế bào thành ngoài và tầng trung giao.
Các tế bào sinh dục đực và cái tập trung ở dưới các ống vị phóng xạ, sau khi
chín được giải phóng ra ngoài qua các vết nứt thành cơ thể. Quá trình thụ tinh và
phát triển xảy ra trong nước (thụ tinh và phát triển ngoài). Trứng phân cắt đều, phôi
vị hình thành theo lối di nhập, tức là các tế bào ở cực dinh dưỡng di chuyển vào
xoang phôi, dần dần lấp đầy, sau đó chia thành 2 lớp tế bào được gọi là lá phôi trong
và lá phôi ngoài. Sau đó phát triển thành ấu trùng planula. Ấu trùng planula có lông
bơi phủ mặt ngoài, bơi lội trong nước một thời gian, sau đó ấu trùng bám vào giá
thể. Trong cơ thể ấu trùng bắt đầu hình thành xoang vị, đầu kia sẽ hình thành tua
miệng để cho cá thể dạng thủy tức. Cá thể này tiếp tục mọc chồi để cho tập đoàn
thủy tức mới.
Ở tập đoàn sứa ống, trứng và tinh trùng được hình thành trong các cá thể sinh
sản đực và cái. Sau khi thụ tinh sẽ hình thành hợp tử và phát triển thành ấu trùng
planula bơi lội tự do trong nước. Sau đó ấu trùng planula sẽ biến đổi thành dạng ấu
trùng phức tạp hơn để mọc chồi cho tập đoàn sứa ống mới.
Hiện tượng xen kẽ thế hệ: Lối sinh sản của tập đoàn thủy tức cho thấy hình ảnh
đặc sắc về hiện tượng xen kẽ thế hệ của động vật. Đây là kiểu sinh sản có xen kẽ 2
hình thái polyp và medusa tương ứng với sinh sản vô tính và hữu tính. Tuy nhiên
nếu nhìn rộng ra thì thấy có xu thế tiêu giảm một trong hai giai đoạn (không bằng
nhau), thậm chí tiêu giảm hẳn một giai đoạn. Ví dụ thủy tức nước ngọt thì không có
dạng thủy mẫu, còn thủy tức nước mặn thì dạng thủy mẫu ưu thế.
Hiện tượng xen kẽ thế hệ có ý nghĩa quan trọng giúp loài mở rộng vùng phân
bố và đổi mới vốn di truyền.
2.1.3 Đa dạng và tầm quan trọng
Lớp Thủy tức có khoảng 3.000 loài, xếp trong 2 lớp phụ.
a. Phân lớp Thủy tức (Hydroidea): Có 4 bộ.
Bộ Hydrida: Bao gồm các thủy tức sống đơn độc ở nước ngọt hay ở biển. Đại
diện: Ở nước ngọt có loài thủy tức nâu Pelmantohydra oligactic và thủy tức xanh
Chlorohydra viridisima sống phổ biến ở ao hồ Việt Nam, có thể nuôi và làm mẫu vật
thí nghiệm phổ biến. Ở biển đã gặp loài Protohydra caulleyi sống ở các rạn đá,
không có tua miệng, không có khả năng sinh
chồi và chỉ sinh sản hữu tính, sống bám trên rong biển hay các rạn đá ven bờ.
Bộ Leptolida: Có cả dạng thủy tức và thủy mẫu, có xen kẽ thế hệ, tuy nhiên
mức độ tiêu giảm khác nhau. Đại diện có các giống là Obelia, Tubularia và
Craspedacusta. Giống thủy tức san hô Hydrocoralia được coi là một nhóm riêng, có
bộ xương đá vôi, sống trong các rạn san hô.
Bộ Chodrophora: Sống trôi nổi trên mặt nước. Phần chủ yếu của cơ thể ứng
với một cơ thể thủy tức lớn, có lỗ miệng nằm phía dưới. Xung quanh núm miệng lớn là các chồi sinh dục và các tua bắt mồi. Đại diện là loài sứa buồm Velella lata, có khi
tập trung thành đám lớn trên mặt biển.
Bộ Trachilida: Chỉ có dạng thủy mẫu, không có xen kẽ thế hệ. Kích thước
tương đối lớn, chủ yếu sống ở biển, ở nước ngọt ít gặp. Đại diện là giống Aglantha
sống trôi nổi ở đại dương, giống Craspedacusta sống ở nước ngọt, có đường kính
thân đạt tới 2cm.
b. Phân lớp Sứa ống (Siphonophora): Dạng tập đoàn phân hoá cao. Trong tập
đoàn có nhóm cá thể sinh sản và nhóm cá thể dinh dưỡng. Nhờ có phao nổi, chuông
bơi và hoạt động co rút của sợi cơ mà cá thể chìm sâu hay nổi lên bề mặt. Có nhiều
ở vùng biển nhiệt đới. Đại diện là giống Physalia có dây trụ dài tới 16m và phao nổi
lớn như con thuyền trôi trên mặt nước, có màu sắc sặc sỡ (hifnh 3.Cool. Ngoài ra còn
gặp giống Halistemma.
Ở vùng biển Phú Quốc, Côn Đảo của Việt Nam, dưới độ sâu 15m có thể gặp
nhiều loài thủy tức với các giống phổ biến là: Campanularia, Sertularia, Plumaria,
Obelia, Millepora và Velella. Tuy nhiên thủy tức nước ngọt ở nước ta còn chưa được
nghiên cứu đầy đủ.
2.2 Lớp Sứa (Scyphozoa)
2.2.1 Đặc điểm cấu tạo và sinh lý
Dù sứa có đường kính từ 20 - 40cm (lớn nhất đạt tới 2m như loài Cyanea
aretica kích thước cơ thể dài tới 30m). Tua bờ dù có độ lớn khác nhau không tương
ứng với kích thước của dù. Ví dụ sứa Aurelia aurita có tán dù rộng 40cm, tua dù chỉ
dài 1cm, trong khi đó giống Drymonema chỉ có tán dù rộng 25cm lại có tua dù dài tới
7m, có khả năng kiểm soát một vùng rộng lớn. Chiếm khối lượng chủ yếu trong cơ
thể sứa là lớp keo trong tầng trung giao. Nhờ vậy cơ thể chúng trong suốt, hoà lẫn
với môi trường nước, có vai trò tự vệ. Tuy vậy vẫn có những loài sứa có màu sắc
sặc sỡ và có khả năng phát sáng trong bóng tối.
Cơ quan tiêu hoá phức tạp hơn thủy tức: Miệng nằm dưới mặt dù, hình 4 cạnh,
các góc của miệng kéo dài thành 4 mấu lồi có rãnh trong. Đó là các thùy miệng có
nhiều tế bào gai để bắt mồi (một số loài sứa thuộc họ sứa Miệng rễ, lỗ miệng bị các
thùy phát triển bịt kín và thay vào đó là các lỗ nhỏ thông với xoang vị). Tiếp theo
miệng là hầu thông vào phần trung tâm của xoang vị là dạ dày. Dạ dày có 4 ngăn
xếp đối xứng có gờ tập trung các dây vị có các tế bào gai. Các tuyến tiêu hoá tiết
men tiêu hoá vào dạ dày. Dạ dày có các ống vị phóng xạ đi từ trung tâm đến ngoại
biên. Trong lòng các ống vị có lót tế bào có roi. Ống vị càng xa trung tâm càng phân hoá phức tạp, tạo thành hệ thống ống vị vòng, hình thành xoang vị khép kín. Nhờ có
xoang vị phức tạp mà quá trình tiêu hoá thức ăn được nhanh chóng và thức ăn được
chuyển đến các phần khác nhau của cơ thể và chất thải cũng theo hệ thống này
được chuyển ra ngoài. Trên thành xoang vị, giữa lớp tế bào lát xoang và lớp keo là 4
tuyến sinh dục. Ứng với vị trí đó phía ngoài thành cơ thể có 4 chỗ lõm vào tạo thành
4 túi dưới dù, có thể liên quan đến chức năng hô hấp (hình 3.9).
Cơ quan thần kinh cảm giác ở sứa phát triển và tập trung ở mức độ cao. Sứa
có mạng thần kinh nằm rải rác và vòng thần kinh nằm song song với mép dù. Đặc
biệt có 8 điểm tập trung thần kinh cảm giác gọi là rôpali. Mỗi rôpali có điểm mắt, hốc
mắt và bình nang ứng với các tế bào thần kinh có 2 hay 3 cực, có thể coi là hạch
thần kinh sơ khai. Sứa có khả năng phân biệt được sáng và tối và nhiều ý kiến cho
rằng sứa có thể cảm giác được sự thay đổi áp suất không khí, nước nên có thể
tránh xa các cơn bão đang đến gần.Trong cơ thể sứa có các sợi cơ chuyên hoá, nằm trong tầng trung giao, có khả
năng co rút rất mạnh, kết hợp với tầng keo dày tạo lực đối kháng. Kiểu bơi của sứa
rất đặc trưng, dù xòe ra rồi lại cụp vào có khi đạt tới tần số 100 - 140 lần/phút.
So với thủy tức thì mức độ tổ chức cơ thể của sứa cao hơn, thích nghi với đời
sống di động, bắt mồi tích cực, tiêu hoá và dẫn truyền chất dinh dưỡng mạnh hơn.
Sứa là bọn ăn thịt (ăn phù du và cá nhỏ), có chất độc bắt mồi.
2.2.2 Đặc điểm sinh sản
Sứa đơn tính, tế bào sinh dục khi chín sẽ thoát ra ngoài qua lỗ miệng, thụ tinh
rồi phát triển thành ấu trùng planula. Sau một thời gian bơi lội tự do trong nước, ấu
trùng chìm xuống đáy, hình thành dạng thủy tức có cuống dài (scyphistoma) có khả
năng mọc chồi. Vòng tua miệng bắt đầu rụng đi và sau đó cắt đoạn hình thành một chồng cá thể có lỗ miệng hướng lên lên trên, mỗi cá thể gọi là một đĩa sứa, xếp
chồng nhau (chồng sứa gọi là strobilla, mỗi đĩa sứa gọi là ephyra), ephyra tách ra
phát triển thành sứa trưởng thành. Sự xen kẽ thế hệ: Giai đoạn thủy tức rất ngắn,
giai đoạn thủy mẫu chiếm ưu thế trong suốt đời sống cùng với kiểu sống tự do và lối
sinh sản hữu tính.
2.2.3 Phân loại và tầm quan trọng
Có khoảng 200 loài, chia thành 5 bộ:
a. Bộ Sứa có cuống (Stauromedusae): Sứa sống bám nhờ cuống dài, có nhiều
tua bám trên nhú lồi ngăn cách bằng các phần lõm sau bờ dù. Màu sắc khác nhau,
lúc thì vàng tươi, lúc thì vàng da cam, lúc thì nâu nhạt... phù hợp với màu tảo biển
nơi chúng sống. Có thể di chuyển chỗ nhưng không bơi. Phát triển không có xen kẽ
thế hệ, scyphistoma không cắt ngang thành đĩa sứa mà phát triển thẳng sứa trưởng
thành sống bám. Trong quá trình phát triển mỗi planula (không có lông bơi) mọc chồi
cho ra nhiều planula khác và sau đó mỗi planula lại cho ra một cơ thể. Đại diện có
giống Haliclystus, Lucernaria.
b. Bộ Sứa vuông (Cubomedusae): sứa thường nhỏ (không vượt quá vài cm),
trong suốt có dạng khối vuông, có 4 rôpali ở 4 gốc tua bờ dù. Chúng thiếu các ống vị
phóng xạ và dạng thủy tức không có ống bảo vệ. Tua có thể rất dài, một cơ thể có
đường kính 2 - 3cm mà tua có thể dài tới 30m. Mắt cấu trúc rất phức tạp. Chỉ sống ở vùng biển nông. Loài thường gặp là Charybdea marsupialis. Ngoài ra có giống
Chiropsanus có khả năng gây bỏng nặng cho người tắm biển (hình 3.12).
c. Bộ Sứa có rãnh (Coronata): Dù sứa có rãnh vòng ngăn làm 2 phần: phần
đỉnh dù và phần rìa dù. Bờ dù có nhiều thùy, giữa các thùy có xếp các rôpali xen kẽ
với tua bờ dù. Một số giống chuyên sống ở biển sâu (Atolla, Periphylla). Chúng có
màu nâu hay đỏ. Trong cơ thể
có chất luciferin dễ bị ô xy hóa phát ra một thứ ánh sáng lạnh nhưng rất rực rỡ và
dùng để thu hút các giáp xác nhỏ đến làm mồi cho chúng. Đại diện có loài Nausithoe
punctata có dạng scyphistoma có bao kitin ngoài.
d. Bộ Sứa đĩa (Discomedusae):
Dù sứa dẹp, bờ dù có nhiều tua rất dài, ống vị phóng xạ phân nhánh phức tạp. Đại
diện có loài Cyanea capillata có tua dài tới 30m, màu sắc thay đổi có cá và giáp xác
sống hội sinh hay ký sinh; loài Pelagia noctiluca có phát sáng; loài Aurelia aurita phổ
biến ở nhiều vùng biển.
e. Bộ Sứa miệng rễ (Rhizostomida): Không có tua bờ dù, miệng bị gốc tay che
lấp, chỉ chừa chừa các lỗ nhỏ. Sứa cỡ lớn, phổ biến ở vùng biển nhiệt đới, một số giống có các
loài tảo đơn bào sống cộng sinh nên có màu nâu lam, do vậy thường bơi ngửa để
thuận lợi cho tảo thu nhận ánh sáng mặt trời. Nhiều loài làm thực phẩm (sứa tai
Rhopilema esculenta), xác định hải lưu, kỹ nghệ điện ảnh, chữa bệnh...
Vùng biển Việt Nam phổ biến các loài sứa miệng rễ, thường xuất hiện vào cuối
mùa xuân, đầu mùa hè, có khi vào đến cửa sông (doi biển). Một số loài gây ngứa và
bỏng nặng cho người đi tắm biển (loài Pilema pulmo và giống Chirosalmus).
Hóa thạch còn lại của sứa không đáng kể, vết tích còn lại cho thấy chúng phổ
biến ở kỷ Silua.
BuiXuanTung
BuiXuanTung
THẠC SĨ
THẠC SĨ

Tổng số bài gửi : 450
Điểm : 18132
Reputation : 0
Birthday : 01/01/1967
Join date : 20/04/2010
Age : 57
Đến từ : TP HCM VIET NAM

http://HOCHANH.FORUM-VIET.NET

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết