Tìm kiếm
Similar topics
Latest topics
Đăng nhập với tên thanhvien VIP
28/8/2010, 21:37 by ABC
BẠN CÓ THỂ ĐĂNG KÝ RỒI ĐĂNG NHẬP
HOẶC ĐĂNG NHẬP
VỚI TÊN thanhvienvip
hoặc thanhvien 1
hoặc thanhvien 2
hoặc thanhvien 3
và mật khẩu là 1234567890
để không có dòng quảng cáo trên.
HOẶC ĐĂNG NHẬP
VỚI TÊN thanhvienvip
hoặc thanhvien 1
hoặc thanhvien 2
hoặc thanhvien 3
và mật khẩu là 1234567890
để không có dòng quảng cáo trên.
Comments: 0
HỌC ĐI ĐÔI VỚI HÀNH ?
28/4/2010, 22:40 by Admin
Học đi đôi với hành
“ trăm hay không bằng tay quen”. người lao động xưa đã từng quan niệm rằng lí thuyết hay không bằng thức hành giỏi. điều đó cho thấy người xưa đã đề cao vai trò của thức hành . trong khi đó những kẻ học thức chỉ biết chữ nghĩa thánh hiền, theo lối học từ chương sáo mòn cũ kĩ. …
[ Full reading ]
“ trăm hay không bằng tay quen”. người lao động xưa đã từng quan niệm rằng lí thuyết hay không bằng thức hành giỏi. điều đó cho thấy người xưa đã đề cao vai trò của thức hành . trong khi đó những kẻ học thức chỉ biết chữ nghĩa thánh hiền, theo lối học từ chương sáo mòn cũ kĩ. …
[ Full reading ]
Comments: 2
Vai tro nguoi Nhat Ban xua va nay
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Vai tro nguoi Nhat Ban xua va nay
Vị trí của người phụ nữ nhật bản
thay đổi rất nhiều trong quá trình lịch sử. Những nghiên cứu về lịch sử phụ nữ
cho thấy, ít nhất là trước thế kỷ 11, phụ nữ Nhật Bản luôn đóng vai trò trung
tâm trong gia đình, giống như nhiều xã hội mẫu hệ. Bên cạnh đó, phụ nữ còn có
ảnh hưởng đặc biệt to lớn đối với tôn giáo và chính trị. Trong thế kỷ 7 và thế
kỷ 8, một vài người phụ nữ trở thành Nữ hoàng, ví dụ như các nữ hoàng Suiko,
Saimei, Jito và Koken.
Từ thế kỷ 6 trở về sau, cùng với sự du nhập của
đạo Khổng và Phật giáo, xã hội chuyển dần sang cơ cấu gia trưởng. Tuy nhiên,
những phụ nữ tầng lớp thượng lưu vẫn thường là những người có học cao và có
những quyền quan trọng như quyền thừa kế gia tài, cho đến khi họ bị tước mất
những quyền này trong thời kỳ chuyển sang kinh tế phong kiến theo hướng phục vụ
chiến tranh, bắt đầu từ thế kỷ 12. Mấy trăm năm tương đối hòa bình trong thời
Edo (1600-1868) dường như càng củng cố cơ cấu gia trưởng và đẩy người phụ nữ vào
vai trò phụ thuộc. Chỉ từ thời Minh Trị (1869-1912) trở đi, nhất là từ sau Thế
chiến 2, khi có nhiều cơ hội công ăn việc làm cũng như giáo dục, cùng với nhiều
cải thiện về pháp luật, phụ nữ Nhật Bản mới phần nào có vị trí xứng
đáng.
Sau Minh Trị Duy Tân năm 1868, việc áp dụng giáo dục phổ cập vào
năm 1873 có nghĩa là ngày càng nhiều trẻ em gái được đến trường, ít nhất cũng
hết bậc tiểu học. Song việc giáo dục cho các em gái bị tụt hậu so với việc giáo
dục cho các em trai, và chính sách của chính phủ nêu rõ rằng, nên đào tạo sao
cho các em gái trở thành người nội trợ giỏi, giữ truyền thống coi phụ nữ là
“những người vợ đảm và những bà mẹ thông minh”, tiếng Nhật gọi là ryosai
kembo.
Một số phụ nữ cũng tham gia các cuộc đấu tranh dẫn đến Minh Trị
Duy Tân, nhưng Luật Dân sự Minh Trị năm 1898 chỉ dành cho họ những quyền hạn chế
như quyền li dị và quyền sở hữu tài sản, lại bắt buộc phải có sự đồng ý của
người chồng trong hầu hết các vụ kiện pháp lý.
Khi Thế chiến 2 kết thúc,
lực lượng chiếm đóng lấy cơ cấu dân chủ của Mỹ làm hình mẫu nên các đạo luật về
phụ nữ ở Nhật Bản nói chung cũng tương tự như các đạo luật của Mỹ. Hiến pháp năm
1947 cấm phân biệt giới tính trong chính trị, kinh tế, quan hệ xã hội, đồng thời
khẳng định các đạo luật được ban hành trên cơ sở bình đẳng giới tính và tôn
trọng nhân phẩm của cá nhân. Luật Dân sự cũng khẳng định sự bình đẳng giữa vợ và
chồng. Các tòa án gia đình can thiệp vào những vấn đề như tranh chấp tài sản và
quyền nuôi con. Song thực tế, không phải các quy định trong luật luôn được thực
thi nên xã hội gia trưởng của Nhật Bản vẫn là một chủ đề được nói đến rất nhiều,
trong khi nước Nhật hiện đại đang chuẩn bị bước vào thiên niên kỷ mới.
Ở Nhật Bản, theo truyền thống vợ và chồng hầu như có
thế giới riêng và thực tế này hiện vẫn khá phổ biến, tuy có xu hướng tiến tới
quan hệ chặt chẽ và trao đổi với nhau nhiều hơn. Cuộc sống của người chồng tập
trung vào công việc, dành nhiều thời gian rỗi với các đồng sự nam giới của mình
trong mối quan hệ xã hội không có sự tham gia của vợ. Còn cuộc sống của người vợ
tập trung vào gia đình, con cái và hàng xóm. Ở nhà, người vợ có quyền to lớn vì
thường là người chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc điều hành ngân sách của gia
đình và luôn quyết định về những việc liên quan đến con cái. Nói chung người vợ
ở Nhật Bản không đề nghị và không trông đợi chồng giúp đỡ các công việc nhà,
thậm chí ngay cả khi bản thân người vợ phải đi làm.
Trong những năm thịnh
vượng vào thập kỷ 60, số cuộc kết hôn tăng mạnh. Nhưng gần đây, tuổi lập gia
đình trung bình đã tăng lên. Theo số liệu năm 1997, tuổi kết hôn lần đầu trung
bình của nam là 28,5 và của nữ là 26,6. Số lượng phụ nữ không lấy chồng cũng
tăng lên vì trình độ học vấn cao và cơ hội nghề nghiệp đã tạo nên sự độc lập về
kinh tế.
thay đổi rất nhiều trong quá trình lịch sử. Những nghiên cứu về lịch sử phụ nữ
cho thấy, ít nhất là trước thế kỷ 11, phụ nữ Nhật Bản luôn đóng vai trò trung
tâm trong gia đình, giống như nhiều xã hội mẫu hệ. Bên cạnh đó, phụ nữ còn có
ảnh hưởng đặc biệt to lớn đối với tôn giáo và chính trị. Trong thế kỷ 7 và thế
kỷ 8, một vài người phụ nữ trở thành Nữ hoàng, ví dụ như các nữ hoàng Suiko,
Saimei, Jito và Koken.
Từ thế kỷ 6 trở về sau, cùng với sự du nhập của
đạo Khổng và Phật giáo, xã hội chuyển dần sang cơ cấu gia trưởng. Tuy nhiên,
những phụ nữ tầng lớp thượng lưu vẫn thường là những người có học cao và có
những quyền quan trọng như quyền thừa kế gia tài, cho đến khi họ bị tước mất
những quyền này trong thời kỳ chuyển sang kinh tế phong kiến theo hướng phục vụ
chiến tranh, bắt đầu từ thế kỷ 12. Mấy trăm năm tương đối hòa bình trong thời
Edo (1600-1868) dường như càng củng cố cơ cấu gia trưởng và đẩy người phụ nữ vào
vai trò phụ thuộc. Chỉ từ thời Minh Trị (1869-1912) trở đi, nhất là từ sau Thế
chiến 2, khi có nhiều cơ hội công ăn việc làm cũng như giáo dục, cùng với nhiều
cải thiện về pháp luật, phụ nữ Nhật Bản mới phần nào có vị trí xứng
đáng.
Sau Minh Trị Duy Tân năm 1868, việc áp dụng giáo dục phổ cập vào
năm 1873 có nghĩa là ngày càng nhiều trẻ em gái được đến trường, ít nhất cũng
hết bậc tiểu học. Song việc giáo dục cho các em gái bị tụt hậu so với việc giáo
dục cho các em trai, và chính sách của chính phủ nêu rõ rằng, nên đào tạo sao
cho các em gái trở thành người nội trợ giỏi, giữ truyền thống coi phụ nữ là
“những người vợ đảm và những bà mẹ thông minh”, tiếng Nhật gọi là ryosai
kembo.
Một số phụ nữ cũng tham gia các cuộc đấu tranh dẫn đến Minh Trị
Duy Tân, nhưng Luật Dân sự Minh Trị năm 1898 chỉ dành cho họ những quyền hạn chế
như quyền li dị và quyền sở hữu tài sản, lại bắt buộc phải có sự đồng ý của
người chồng trong hầu hết các vụ kiện pháp lý.
Khi Thế chiến 2 kết thúc,
lực lượng chiếm đóng lấy cơ cấu dân chủ của Mỹ làm hình mẫu nên các đạo luật về
phụ nữ ở Nhật Bản nói chung cũng tương tự như các đạo luật của Mỹ. Hiến pháp năm
1947 cấm phân biệt giới tính trong chính trị, kinh tế, quan hệ xã hội, đồng thời
khẳng định các đạo luật được ban hành trên cơ sở bình đẳng giới tính và tôn
trọng nhân phẩm của cá nhân. Luật Dân sự cũng khẳng định sự bình đẳng giữa vợ và
chồng. Các tòa án gia đình can thiệp vào những vấn đề như tranh chấp tài sản và
quyền nuôi con. Song thực tế, không phải các quy định trong luật luôn được thực
thi nên xã hội gia trưởng của Nhật Bản vẫn là một chủ đề được nói đến rất nhiều,
trong khi nước Nhật hiện đại đang chuẩn bị bước vào thiên niên kỷ mới.
Ở Nhật Bản, theo truyền thống vợ và chồng hầu như có
thế giới riêng và thực tế này hiện vẫn khá phổ biến, tuy có xu hướng tiến tới
quan hệ chặt chẽ và trao đổi với nhau nhiều hơn. Cuộc sống của người chồng tập
trung vào công việc, dành nhiều thời gian rỗi với các đồng sự nam giới của mình
trong mối quan hệ xã hội không có sự tham gia của vợ. Còn cuộc sống của người vợ
tập trung vào gia đình, con cái và hàng xóm. Ở nhà, người vợ có quyền to lớn vì
thường là người chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc điều hành ngân sách của gia
đình và luôn quyết định về những việc liên quan đến con cái. Nói chung người vợ
ở Nhật Bản không đề nghị và không trông đợi chồng giúp đỡ các công việc nhà,
thậm chí ngay cả khi bản thân người vợ phải đi làm.
Trong những năm thịnh
vượng vào thập kỷ 60, số cuộc kết hôn tăng mạnh. Nhưng gần đây, tuổi lập gia
đình trung bình đã tăng lên. Theo số liệu năm 1997, tuổi kết hôn lần đầu trung
bình của nam là 28,5 và của nữ là 26,6. Số lượng phụ nữ không lấy chồng cũng
tăng lên vì trình độ học vấn cao và cơ hội nghề nghiệp đã tạo nên sự độc lập về
kinh tế.
Số lượng nữ thanh niên học lên cao sau khi tốt nghiệp
phổ thông tăng dần mỗi năm kể từ Thế chiến 2. Năm 1989, tỉ lệ nữ giới vào đại
học và cao đẳng là 36,8%, lần đầu tiên vượt tỉ lệ của nam giới (35,8%). Vào năm
1997, tỉ lệ này lên tới mức kỷ lục là 46,8% trong khi tỉ lệ của nam giới giảm
xuống còn 34,5%.
Kể từ khi phụ nữ Nhật Bản được quyền đi bỏ phiếu vào năm
1945, hầu như trong cuộc bầu cử nào số cử tri nữ cũng cao hơn cử tri nam giới.
Tuy nhiên, đại diện của phái nữ trong cuộc sống chính trị vẫn quá ít. Năm 1950,
họ chỉ có 3,4% đại diện trong lưỡng viện quốc hội. Tỉ lệ này tăng không đáng kể
cho tới tận năm 1986 và vào năm 1999, tức là 52 năm sau khi có những nữ nghị sĩ
đầu tiên, quốc hội cũng mới chỉ có 67 nữ thượng và hạ nghị sĩ, chiếm 8,9%. Trong
chính phủ trung ương, phụ nữ nói chung chỉ nắm giữ các chức vụ cao trong các ủy
ban hoặc vụ liên quan đến các vấn đề phụ nữ hoặc giáo dục. Trường hợp bà bộ
trưởng bưu chính viễn thông Noda Seiko trong chính phủ của thủ tướng Obuchi là
rất hiếm hoi.
Tỉ lệ tham gia của phụ nữ trong các ủy ban và hội đồng cố
vấn quốc gia vào năm 1975 chỉ có 2,4%, đến tháng 9/1998 tăng gấp hơn 7 lần nhưng
cũng mới chỉ đạt 18,3%.
Số lượng phụ nữ nắm giữ chức vụ cao trong các cơ
quan chính quyền đang tăng lên, tuy còn ít ỏi. Vào tháng 12/1998, có 4 nữ thị
trưởng và 9 phó tỉnh trưởng nữ. Nhật Bản cũng có 7 nữ đại sứ và 5 phụ nữ nắm giữ
các chức vụ cao tại LHQ. Bà Ogata Sadako là người Nhật Bản đầu tiên được bầu làm
Cao ủy LHQ phụ trách người tị nạn. Bà từng nắm giữ những chức vụ quan trọng khác
như giám đốc nhân sự UNESCO, cố vấn phó tổng thư ký LHQ về các vấn đề kinh tế và
xã hội, v,v…
mm- GIÁO SƯ
- Tổng số bài gửi : 634
Điểm : 13793
Reputation : 3
Birthday : 04/04/1966
Join date : 26/04/2010
Age : 58
Similar topics
» không có người cha hoàn hảo mà chỉ có người cha luôn dành yêu thương hoàn hảo nhất cho những đứa con của mình
» Người giàu nhất thế giới năm 2010:
» thông số kỹ thuật của cây bút và ngòi bút sao cho hiệu quả nhất và hợp lý nhất cho việc chữ nét thanh nét đậm.
» Người giàu nhất thế giới năm 2010:
» thông số kỹ thuật của cây bút và ngòi bút sao cho hiệu quả nhất và hợp lý nhất cho việc chữ nét thanh nét đậm.
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
|
|
29/12/2015, 16:45 by mycomputer
» Người ta bận yêu, còn em bận cô đơn…
18/12/2015, 17:04 by mycomputer
» Đông đến làm người ta cô đơn hơn phải không anh?
23/11/2015, 15:45 by mycomputer
» Em muốn được ôm anh từ phía sau
13/11/2015, 16:09 by mycomputer
» Hãy cho nhau một cơ hội để giãi bày!
9/11/2015, 16:43 by mycomputer
» Đôi lúc em chỉ muốn mình thuộc về ai đó thôi...
5/11/2015, 16:33 by mycomputer
» Trái đất này, ba phần tư là nước mắt...
27/10/2015, 16:24 by mycomputer
» Để anh kể em nghe về những người phụ nữ anh yêu...
22/10/2015, 16:21 by mycomputer
» Thương vội người đến sau...
13/10/2015, 16:09 by mycomputer